Năng lượng tái tạo

Động cơ đốt trong ICE - nguồn điện linh hoạt hỗ trợ tiến gần hơn với mục tiêu Net Zero Duy Anh Duy Anh

Thứ năm, 24 Tháng 8 2023 01:59

Tin tức

Công nghệ động cơ đốt trong ICE được cho là chiếc "chìa khóa"quan trọng mở ra cơ hội giúp Việt Nam ổn định các nguồn NLTT và tiến gần hơn với mục tiêu Net Zero.
Đề xuất bổ sung các nhà máy điện động cơ đốt trongPhát triển ngành công nghiệp thực phẩm bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu

Lần đầu tiên nguồn điện linh hoạt được đưa vào Quy hoạch điện VIII

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) mới được phê duyệt vào ngày 15/5/2023 vừa qua là quy hoạch điện đầu tiên đưa một nguồn điện mới có tên “nguồn điện linh hoạt” vào trong cơ cấu công suất nguồn, bắt đầu với 300 MW vào năm 2030 và tăng lên đáng kể tới 46,200 MW vào năm 2050.

Wärtsilä – một tập đoàn công nghệ đến từ Phần Lan – đã tham gia vào thị trường Việt Nam từ đầu những năm 2000. Tới nay, tại Việt Nam tập đoàn đã xây dựng thành công khoảng 10 nhà máy điện sử dụng động cơ đốt trong (ICE), cung cấp nguồn điện tin cậy cho các khách hàng công nghiệp. Ngay khi giá FIT cho điện mặt trời được ban hành vào năm 2017, tập đoàn đã thấy trước nhu cầu rất lớn cho nguồn điện linh hoạt khi tỉ trọng các nguồn năng lượng tái tạo tăng cao trong tương lai.

Từ năm 2018, Wärtsilä đã tiếp cận với các cơ quan quản lý và khu vực khối tư nhân để chia sẻ những kinh nghiệm trong việc mô phỏng hệ thống điện, đưa ra các khuyến nghị trong việc xây dựng lộ trình giảm phát thải các-bon trong ngành điện, nâng cao tầm quan trọng của việc bổ sung các nguồn điện linh hoạt vào hệ thống và giới thiệu những công nghệ & giải pháp của động cơ ICE.

Động cơ đốt trong ICE - nguồn điện linh hoạt hỗ trợ tiến gần hơn với mục tiêu Net Zero

Một số sự kiện quan trọng về nguồn điện linh hoạt ICE mà tập đoàn Wärtsilä đã tổ chức trong những năm vừa qua “Chúng tôi rất vui mừng khi nhận thấy Việt Nam đã ghi nhận sự cần thiết của nguồn điện linh hoạt trong Quy hoạch điện VIII và vai trò quan trọng của công nghệ phát điện linh hoạt như động cơ ICE trong việc hỗ trợ dịch chuyển năng lượng tại Việt Nam”, ông Phạm Minh Thành, Giám đốc Quốc gia của Wärtsilä cho hay.

Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch năng lượng

Nói về vai trò của công nghệ ICE trong hệ thống điện Việt Nam, ông Lê Việt Cường – Phó Viện trưởng, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhận định, trong quá trình tham vấn Bộ Công Thương phát triển Quy hoạch điện VIII, một trong những giải pháp quan trọng đã được đưa ra là từng bước nâng cao tỷ lệ hợp lý nguồn điện linh hoạt trong hệ thống điện. Nguồn điện linh hoạt có nhiều ưu điểm kỹ thuật khi vận hành trong hệ thống điện như khởi động nhanh, dừng nhanh; chế độ tải nền, phủ đỉnh, tải thấp; thay đổi công suất phát tức thời theo yêu cầu của đơn vị vận hành hệ thống điện.

Nhiều chuyên gia nhận định, khả năng vận hành linh hoạt là một yêu cầu với bất kỳ hệ thống điện nào với tỉ trọng năng lượng tái tạo cao. Những nhà máy điện linh hoạt sử dụng động cơ đốt trong ICE sẽ đóng vai trò hỗ trợ tích hợp các nguồn điện năng lượng tái tạo và đảm bảo sự ổn định cho hệ thống điện khi không có nắng hoặc gió trong nhiều giờ và ngày liên tục.

Hiện nay, miền Bắc đang gặp phải thách thức trong giai đoạn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu điện và vấn đề này có thể sẽ gây tác động tới sự tăng trưởng kinh tế của khu vực. “Wärtsilä có rất nhiều kinh nghiệm trên toàn cầu với các giải pháp để đối phó với những thách thức như vậy. Trong vòng vài năm vừa qua, chúng tôi đã xây dựng rất nhiều các nhà máy điện ICE dạng mô-đun trong thời gian ngắn (fast-track) tại các nước trong khu vực như Indonesia, Philippines, Myanmar hay Campuchia để giảm thiểu tình trạng thiếu điện một cách nhanh chóng”- ông Thành chia sẻ thêm.

Nhà máy điện với nhiều tổ máy ICE cung cấp khả năng vận hành linh hoạt cho hệ thống điện
Nhà máy điện với nhiều tổ máy ICE cung cấp khả năng vận hành linh hoạt cho hệ thống điện

Việt Nam rõ ràng là một điểm nóng trong khu vực Đông Nam Á nơi có tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện và thâm nhập nguồn năng lượng tái tạo tốp đầu thế giới trong vòng 5 năm qua. Châu Á cũng là một thị trường quan trọng với Wärtsilä khi tập đoàn đã xây dựng khoảng 2,200 nhà máy điện ICE đáp ứng nhu cầu điện và cung cấp khả năng cân bằng hệ thống.

Tháng 10 vừa qua, Wärtsilä đã công bố dự án nhà máy điện khí công suất 100 MW sử dụng 10 tổ máy ICE Wärtsilä 34SG tại Nhật Bản. Những động cơ ICE này với khả năng khởi động nhanh sẽ hỗ trợ cân bằng hệ thống và cung cấp nguồn phủ đỉnh cần thiết trong bối cảnh Nhật Bản đang đặt mục tiêu tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo lên tới 36-38% vào năm 2030. Nhà máy này khi hoàn thành cũng sẽ tham gia vào thị trường cân bằng hệ thống giữa các vùng miền mới được các cơ quan quản lý Nhật Bản cho triển khai từ năm 2021. Nhà máy này cũng sẽ thay thế cho một nhà máy tuabin khí chu trình hỗn hợp (CCGT) công suất 100 MW trước đây nằm tại vị trí của dự án.

Trong giai đoạn tiếp theo, sự kết hợp giữa năng lượng tái tạo và nguồn điện linh hoạt đến từ các động cơ ICE và hệ thống pin tích trữ năng lượng ESS có thể đảm bảo độ tin cậy cho hệ thống điện Việt Nam và việc đạt mục tiêu net zero là khả thi với các công nghệ có sẵn mà không làm tăng chi phí hệ thống.

 
 

Nghệ An: "Mở khóa" tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo

Thứ năm, 24 Tháng 8 2023 01:57

Tin tức

Nghệ An là địa phương có tiềm năng, lợi thế về phát triển năng lượng tái tạo và bước đầu thu hút đầu tư nhiều dự án năng lượng tái tạo, năng lượng sạch.
Nghệ An: Ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng sạchNghệ An chấp thuận chủ trương đầu tư thêm 2 dự án nhà máy điện mặt trời

Tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo

Theo tính toán, sản lượng điện của Nghệ An đáp ứng trên 70% nhu cầu tiêu thụ của toàn tỉnh (sản lượng điện tiêu thụ 4,2 tỷ kWh). Về điện mặt trời áp mái, đến nay tổng công suất lắp đặt điện mặt trời áp mái 13,398MWp, sản lượng phát điện lũy kế 10 tháng 2020 đạt 2.415.608kWh.

Nghệ An:

Nghệ An có tiềm năng to lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió

Cụ thể, về dự án điện mặt trời, hiện đã có 2 dự án điện mặt trời (Điện mặt trời nổi Vực Mấu và điện mặt trời hồ Khe Gỗ) với tổng công suất 450MWp, đã được Thủ tướng Chính phủ thống nhất bổ sung vào Quy hoạch điện VII điều chỉnh tại Văn bản số 1632/TTg-CN ngày 20/11/2020. Bên cạnh đó, tỉnh Nghệ An đã đề xuất đưa vào Quy hoạch điện VIII, 7 dự án điện mặt trời nối lưới với tổng công suất 680MWp.

Lĩnh vực điện gió được xem như “ngôi sao mới” của ngành công nghiệp năng lượng. Tuy nhiên ở Nghệ An chưa có dự án điện gió nào được phê duyệt vào quy hoạch. Vừa qua, UBND tỉnh Nghệ An đã đề xuất dự án điện gió Quỳnh Lập với tổng công suất 110MW vào Quy hoạch điện VIII; hiện đang có 3 dự án điện gió (Nhà máy điện gió Nam Đàn 250MW, Nhà máy điện gió ngoài khơi Diễn Châu 300MW, Nhà máy điện gió ngoài khơi Diễn Châu 1, 1.000MW) lập hồ sơ đề xuất quy hoạch dự án; 1 dự án điện gió ngoài khơi Nghi Lộc 500MW đang xin chủ trương khảo sát.

Điện sinh khối, Nghệ An chưa có dự án điện sinh khối được phê duyệt vào quy hoạch; hiện nay mới có 1 dự án điện sinh khối (Nhà máy điện sinh khối Tân Kỳ) với công suất 30MW đã được UBND tỉnh Nghệ An báo cáo Bộ Công Thương đề xuất bổ sung vào Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2016-2025, có xét đến năm 2035.

Về điện khí Quỳnh Lập: Hiện dự thảo Quy hoạch điện VIII có danh mục điện khí Quỳnh lập với công suất 1500MW.

Theo các chuyên gia, nếu tiếp tục mở rộng ngành năng lượng tái tạo, thì Nghệ An sẽ nhanh chóng đạt vị trí cao hơn trên thị trường.

Động lực và thách thức với ngành năng lượng tái tạo tại Nghệ An

Có nhiều yếu tố thúc đẩy ngành năng lượng tái tạo phát triển nhanh chóng tại Nghệ An. Đầu tiên là mức tiêu thụ điện ở tỉnh này khá cao. Năm 2020, sản lượng điện thương phẩm ở Nghệ An ước là 3,8 tỷ kWh; dự ước năm 2021 sản lượng điện thương phẩm là 4,4 tỷ kWh và năm 2022 sản lượng điện thương phẩm là 5 tỷ kWh.

Theo số liệu Quy hoạch Phát triển điện lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2016-2020, có xét đến năm 2035 đã được phê duyệt, đến 2025 sản lượng điện thương phẩm là 6,75 tỷ kWh và đến 2030 sản lượng điện thương phẩm là 9,55 tỷ kWh.

Ngoài ra, phương án khai thác thủy điện trên các hồ thủy lợi đã được đề xuất trên 9 hồ, đập thủy lợi (gồm: Vực Mấu, Sông Sào, Vệ Vừng, Khe Đá, Mả Tổ, Nhà Trò, Cửa Ông, Bản Muộng, Đập Dâng Đô Lương trên địa bàn các huyện, thị xã: Hoàng Mai, Nghĩa Đàn, Yên Thành, Thanh Chương, Quỳ Hợp và Đô Lương) với tổng công suất dự kiến là 26,48MW. Điều này mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp đầu tư vào ngành năng lượng tại Nghệ An nói chung hay năng lượng tái tạo nói riêng.

Hồ Vực Mấu, nơi UBND tỉnh Nghệ An vừa có quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư  một trong hai dự án điện mặt trời ngàn tỷ.
Hồ Vực Mấu, nơi UBND tỉnh Nghệ An vừa có quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư một trong hai dự án điện mặt trời

Cùng với đó, Nghệ An là địa phương nhiều tiềm năng địa lý tự nhiên rất lý tưởng cho sự phát triển của ngành năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Bởi theo khảo sát của các chuyên gia, ở Nghệ An với số giờ nắng trung bình mỗi năm khoảng 1.700 – 2.000 giờ, là thuộc nhóm khu vực có số giờ nắng cao trên cả nước và lượng bức xạ mặt trời trung bình khoảng 4,73kWh/m2/ngày, nên có tiềm năng lớn về phát triển điện năng lượng mặt trời. Nếu khai thác tốt, năng lượng tái tạo ở Nghệ An đạt trên 17.400 MW; có thể thi công tấm pin áp mái, lắp đặt trên mặt đất, mặt nước (hồ) và điện gió trên vùng biển ven bờ. Với vị trí địa lý và khí hậu Nghệ An có thể khai thác điện mặt trời hiệu quả trong cả năm, đặc biệt là từ tháng 4 cho đến tháng 10.

Hiện, Sở Công Thương Nghệ An đang chủ trì phối hợp với các sở, ngành, đơn vị có liên quan tham mưu Tỉnh ủy, UBND tỉnh đề xuất quy hoạch đối với các dự án điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối.

Bà Lê Thị Thu Hường – Trưởng phòng Năng lượng, Sở Công Thương Nghệ An cho biết: để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, cần rà soát lại tổng thể các dự án sản xuất điện đã và đang đầu tư, sắp đưa vào vận hành trên địa bàn. Đầu tư hạ tầng để giải tỏa tối đa công suất các nhà máy thủy điện đã và đang đầu tư; đồng thời kiểm tra tiến độ để đốc thúc các dự án sản xuất điện tái tạo như năng lượng điện gió tại Quỳnh Lập (TX. Hoàng Mai), 2 dự án điện năng lượng mặt trời trị giá trên 7.000 tỷ đồng của Công ty CP MK và Tập đoàn Thiên Minh Đức tại xã Ngọc Sơn và Tân Thắng (Quỳnh Lưu) đã được phê duyệt.

Ngoài ra, theo Sở Công Thương Nghệ An, hiện nay trên địa bàn có 2 dự án điện mặt trời nối lưới được phê duyệt vào Quy hoạch điện VII điều chỉnh và đã được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, tuy nhiên do chưa có cơ sở để hướng dẫn việc lựa chọn nhà đầu tư nên hiện nay chưa triển khai thực hiện bước tiếp theo.

Vì vậy, tỉnh Nghệ An đã kiến nghị Thủ tướng, các bộ, ngành trung ương sớm cập nhật bổ sung các dự án đã được phê duyệt vào quy hoạch điện VIII quốc gia làm cơ sở để tỉnh triển khai, kêu gọi đầu tư trong thời gian tới. Đồng thời, rà soát từng dự án năng lượng cụ thể đặt trong tổng thể chung để đánh giá thực tiễn khả năng giải tỏa công suất hiện nay, từ đó đề ra các giải pháp kỹ thuật cho từng khu vực.

Bên cạnh đó, tỉnh Nghệ An quyết tâm cải thiện môi trường tốt nhất để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Tiêu chí đầu tiên là tạo sự thân thiện, an toàn, hiệu quả cho các nhà đầu tư khi đến tìm hiểu cơ hội đầu tư tại địa phương; định hướng lựa chọn nhà đầu tư lớn, tầm cỡ trên cơ sở sử dụng ít tài nguyên, sử dụng công nghệ tiên tiến, tạo ra nhiều việc làm, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao...

 

TUYỂN DỤNG KỸ SƯ ĐIỆN

Thứ năm, 17 Tháng 8 2023 03:23

Tin tức

      1. Thông tin Công ty

-          Thành lập từ năm 2000.

-          Lĩnh vực chính: Cung cấp vật tư thiết bị; Thiết kế, cung cấp và lắp đặt thiết bị cho các Nhà máy điện tại VN (EVN, EVNGENCO1, EVNGENCO2, EVNGENCO3, TKV Power, PVN) và các nhà máy công nghiệp khác.

2.       2. Thời gian, địa điểm và điều kiện làm việc

-          Thời gian làm việc: 7,5h/ngày, 5 ngày/tuần (từ thứ 2 đến thứ 6; sáng: từ 8h đến 12h, chiều: từ 13h đến 16h30). Nghỉ T7, CN và các ngày lễ tết theo qui định của nhà nước.

-          Địa điểm làm việc: Tầng 2, Nhà A, Tòa nhà T6-08 phố Tôn Quang Phiệt , Q, Bắc Từ Liêm, HN.

-          Văn phòng làm việc hiện đại. Môi trường làm việc năng động, thân thiện, văn minh, chuyên nghiệp.

-                  -          Được trang bị công cụ, dụng cụ làm việc tùy theo tính chất công việc.

3.         3. Quyền lợi

-                   -         Lương: thỏa thuận tùy năng lực. Xét tăng lương, hệ số trách nhiệm định kỳ theo qui định của công ty và đột xuất khi có kết quả làm việc nổi bật.

-                   -         Hưởng các phụ cấp theo quy định (Làm thêm giờ, công tác phí, ăn trưa…)

-                   -         Thưởng hàng năm, ngày lễ (1.5, 2.9), ngày thành lập công ty, tết DL, quà 8.3, 20.10, sinh nhật…

-                   -         Tham gia BHXH, BHYT, BHTN, khám sức khỏe định kỳ hàng năm theo quy định.

-                   -         Du lịch hàng năm, Team building.

-                   -         Cơ hội huấn luyện: được tham gia các khóa đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng cần thiết phục vụ công việc. Có cơ hội làm việc với các chuyên gia trong và ngoài nước.

-                   -          Các chế độ khác theo quy định của công ty.

             4. Mô tả công việc:

-         Thiết kế, lập trình cho việc nâng cấp/thay thế các hệ thống thiết bị trong nhà máy điện: Hệ thống kích từ, hệ thống DCS, hệ thống điều tốc, cầu trục…

-         Khảo sát hiện trường, lập bảng so sánh hệ thống cũ với hệ thống mới; bóc tách khối lượng thiết bị từ hệ thống cũ, lựa chọn thiết bị tương đương cho hệ thống mới được nâng cấp/thay thế.

-         Lập phương án kỹ thuật cho hồ sơ dự thầu.

-         Lập phương án thi công chi tiết; giám sát thi công lắp đặt, đấu nối, thử nghiệm hiệu chỉnh cho hệ thống được nâng cấp/thay thế.

-         Kết hợp với các phòng ban khác và cấp trên để đưa ra đề xuất giải quyết công việc.

-         Thực hiện các công việc khác khi có yêu cầu từ cấp trên.

  1. Yêu cầu:

Về trình độ:

-          Tốt nghiệp Đại học khối kỹ thuật, chuyên ngành Tự động hóa, Điều khiển tự động, Đo lường tin học công nghiệp, Thiết bị điện – điện tử…

      Về ngoại ngữ:

-          Có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh.

-          Có khả năng đọc hiểu tài liệu kỹ thuật bằng tiếng Anh.

Về kiến thức, kỹ năng:

-     Có kiến thức tốt về PLC, biến tần (phần cứng và phần mềm).

-          Có kiến thức về đo lường, điều khiển, truyền động điện và tự động hóa.

-          Sử dụng thành thạo: Autocad, các phần mềm văn phòng (Word, Excel...).

-          Có khả năng làm việc độc lập cũng như phối hợp theo nhóm.

-          Có khả năng tìm kiếm trên Internet, tự nghiên cứu.

-          Tư duy tích cực, dài hạn và trách nhiệm cao.

-          Sẵn sàng đi công tác.

Yêu cầu khác:

-          Giới tính: Nam.

-          Ưu tiên ứng viên có kinh nghiệm về hệ thống điều khiển DCS, các hệ thống điều khiển sử dụng biến tần, PLC, có hiểu biết về nhà máy điện là một lợi thế.

-          Ưu tiên ứng viên có khả năng giao tiếp tiếng Anh thành thạo.

  1. Thông tin khác:

-          Thời gian thử việc: 01 ÷ 02 tháng theo năng lực.

  1. u cầu hồ sơ:

-          Vui lòng ghi rõ và chi tiết kinh nghiệm: Công ty + Chức danh + Thời gian công tác + Các dự án đã tham gia triển khai (nếu đã có kinh nghiệm). 

-          Với những hồ sơ đạt yêu cầu, khi đến tham dự phỏng vấn nộp hồ sơ bản cứng bao gồm những nội dụng như sau (hồ sơ chứng thực không quá 6 tháng):
+ Đơn xin việc.
+ Sơ yếu lý lịch có dán ảnh (yêu cầu chứng thực).
+ Bản sao CCCD, bản sao hộ khẩu (nếu có).
+ Bản sao Bằng tốt nghiệp và bảng điểm (yêu cầu chứng thực).
+ Bản sao Chứng chỉ tin học và ngoại ngữ (yêu cầu chứng thực - nếu có).
+ Bản sao Chứng chỉ khác có liên quan (yêu cầu chứng thực - nếu có).
+ Bản sao các Quyết định/Giấy tờ có liên quan đến quá trình công tác trước đó (yêu cầu chứng thực - nếu có).
+ Giấy khám sức khỏe (bản chính, có đóng dấu của bệnh viện, trong vòng 15 ngày trở lại).

  1. Nơi nộp hồ sơ:

-          Trực tiếp tại: Phòng HCNS – Công ty Cổ phần Vật tư & Thiết bị công nghiệp (VATCO)

Địa chỉ: Tầng 2 nhà A tòa nhà T6-08, phố Tôn Quang Phiệt, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội

Điện thoại: 024.35146211/ 024. 35146212

-          Hoặc file mềm qua hòm thư: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó.

Lưu ý: không trả lại hồ sơ.

 
 

Làm rõ thêm về chính sách phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Thứ ba, 06 Tháng 6 2023 02:16

Tin tức

Triển khai chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, thời gian qua lĩnh vực này đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên vẫn còn 1 số vấn đề cần làm rõ.
Chuyên gia kinh tế: "Mua điện tái tạo chuyển tiếp phải đúng các quy định của pháp luật"Công khai thông thủ tục các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếpXử lý các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp: Trách nhiệm, công khai và minh bạch

Tại Diễn đàn Quốc hội, Kỳ họp thứ 5, vấn đề điện đã được rất nhiều đại biểu quan tâm, đặt câu hỏi. Dư luận theo đó cũng nóng lên giống như thời tiết oi bức của mùa hạ, đặc biệt trong bối cảnh nguồn điện đang căng thẳng, một số dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp gặp khó khăn từ trước.

Các câu hỏi đặt ra là vì sao đất nước đang đứng trước nguy cơ thiếu điện trong khi hàng chục dự án điện gió, mặt trời đã xong lại không được hoàn thiện thủ tục vận hành thương mại để huy động? Vì sao không huy động năng lượng tái tạo trong nước mà phải nhập khẩu? Vì sao giá điện năng lượng tái tạo lại thấp hơn một số loại hình nhiệt điện dầu, than trong khi chủ trương là ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo?

Đã có nhiều luồng dư luận, thậm chí là tiêu cực quy trách nhiệm cho cơ chế, chính sách, đổ lỗi cho Bộ Công Thương, ngành điện.

Để làm rõ hơn về những câu hỏi nêu trên dưới góc nhìn khách quan và thực tế, chúng tôi xin điểm lại một số nét chính về chính sách năng lượng tái tạo tại Việt Nam.

Chính sách và thành quả năng lượng tái tạo

Trước năm 2015 trở về trước, nguồn điện năng lượng tái tạo (gió, mặt trời) tại Việt Nam hầu như không có gì, mặc dù đã có định hướng phát triển từ trước 2010 nhưng vì chính sách giá điện năng lượng tái tạo thấp, chi phí cao, nhà đầu tư thấy không có lợi nên có đăng ký nhưng đều từ bỏ dự án.

Năng lượng tái tạo chỉ thực sự phát triển trong mấy năm gần đây kể từ khi có Quy hoạch điện VII điều chỉnh (tại Quyết định số 428/QĐ-TTg, ngày 18/3/2016) và Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số: 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015).

Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, mục tiêu về năng lượng tái tạo còn rất khiêm tốn. Cụ thể, đến năm 2020, công suất các nhà máy NLTT của cả nước là 2.060 MW. Trong đó, tổng công suất nguồn điện gió đạt khoảng 800 MW; tổng công suất nguồn điện mặt trời đạt khoảng 850 MW.

Quá trình thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ hội nhập và theo xu hướng phát triển kinh tế xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu và các cam kết quốc tế, chính vì thế, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ ban hành nhiều quyết định khuyến khích, nhằm thúc đẩy phát triển NLTT, nhất là điện mặt trời và điện gió. Điển hình như Quyết định 11/2017/QĐ-TTg, Quyết định 13/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam; Quyết định 37/2011/QĐ-TTg, Quyết định 39/2018/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam. Có nghĩa là các nhà đầu tư nguồn điện năng lượng tái tạo được hưởng giá cố định (giá FIT) trong một khoảng thời gian nhất định.

Chính sách ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo nhanh, bền vững càng được củng cố khi ngày 11/2/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 55).

Trong Nghị quyết 55 nêu rõ: Các nguồn điện năng lượng tái tạo tiếp tục được ưu tiên phát triển với tỉ lệ hợp lý, hài hòa giữa các miền, đảm bảo các tiêu chí kinh tế - kỹ thuật và vận hành, phù hợp với chương trình phát triển hệ thống điện tổng thể giai đoạn tới năm 2030. Năng lượng tái tạo (không tính thủy điện) sẽ tăng từ mức khoảng 17.000 MW hiện nay lên tới 31.600 MW vào năm 2030, chiếm tỉ lệ khoảng 24,3% tổng công suất đặt toàn hệ thống.

Nhờ cơ chế khuyến khích đó, chỉ trong vòng 3-4 năm, nguồn điện mặt trời và gió đã có bước phát triển vượt bậc. Và được quốc tế đánh giá là điểm sáng trên thế giới về phát triển năng lượng tái tạo, đứng đầu khu vực ASEAN.

Theo số liệu từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tính đến ngày 31/10/2021, tổng công suất nguồn năng lượng tái tạo lắp đặt đạt 20.644MW; trong đó, thủy điện chiếm 29,6%; năng lượng mặt trời là 22,57%; năng lượng gió là 5,16%; khí chiếm 10%; dầu xấp xỉ 2% và sinh khối chiếm 0,28% trong tổng công suất nguồn điện.

Và tổng công suất nguồn năng lượng tái tạo tính đến thời điểm hiện nay chiếm khoảng trên 27% hệ thống điện, trong đó có khoảng gần 4.700 MW từ 85 dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp (chưa có giá do hết cơ chế ưu đãi). Trong đó có 77 nhà máy, phần nhà máy điện gió với tổng công suất 4185,4 MW và 8 nhà máy, phần nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 506,66 MW.

Sở dĩ các dự án năng lượng tái tạo chưa được huy động vì rơi đúng vào thời điểm chưa có cơ chế giá, cộng với các dự án còn thiếu nhiều thủ tục, hồ sơ (bỏ qua để chạy theo cơ chế giá FIT) theo quy định của pháp luật và các yếu tố khác nên chưa thể nghiệm thu, vận hành thương mại nên chủ đầu tư gặp khó khăn. Thậm chí nhiều địa phương, chủ đầu tư “kiến nghị” lên Thủ tướng và các bộ, ngành khiến dư luận không tránh khỏi có hiểu lầm.

Điều đáng nói là, trong các đơn kiến nghị gửi Thủ tướng, các doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo đều mong muốn áp dụng cơ chế giá FIT với thời gian 20 năm và đề nghị đơn giản các thủ tục, quy định dẫn đến bên mua điện là EVN khó thực hiện. Trong khi bản thân vấn đề điện gió, mặt trời do phát triển nóng cũng còn một số tồn tại cần xử lý.

Đứng trước những khó khăn của doanh nghiệp, thời gian qua, đặc biệt từ đầu năm đến nay, Bộ Công Thương với vai trò là cơ quan quản lý ngành đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho chủ đầu tư như: Chỉ đạo các đơn vị chức năng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN - đơn vị mua điện) rà soát, ban hành hàng loạt văn bản, hướng dẫn địa phương, chủ đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật; Đồng thời tổ chức nhiều cuộc họp nhằm tìm ra giải pháp hợp lý, tối ưu cho các bên và đạt được mục đích đẩy nhanh quá trình thủ tục nghiệm thu, đàm phán giá, ký kết hợp đồng mua bán điện; Huy động sớm nguồn điện năng lượng tái tạo sẵn có.

Cùng với đó, chỉ đạo ngành điện đẩy nhanh tiến độ các dự án lưới điện truyền tải; các công trình lưới điện phục vụ đấu nối nhập khẩu điện để đảm bảo hiệu quả tối đa sản lượng điện nhập khẩu theo các hợp đồng/thỏa thuận đã ký. Đồng thời cũng đã chỉ đạo Tập đoàn điện lực Việt Nam khẩn trương đàm phán và huy động các nhà máy điện năng lượng tái tạo chuyển tiếp nhằm tăng công suất cho hệ thống điện.

Điều đáng mừng là sau khi có văn bản hướng dẫn, nhiều chủ đầu tư đã chia sẻ với những khó khăn của ngành điện nên đến ngày 31/5/2023 đã có 59/85 nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp với tổng công suất 3.389,811 MW (chiếm 71,6% công suất) đã nộp hồ sơ đến EVN. Tuy nhiên, vẫn còn 26 nhà máy với tổng công suất 1.346,35 MW chưa gửi hồ sơ đàm phán với EVN (chiếm 28,4% công suất), EVN đã đôn đốc nhiều lần.

Trong số các nhà máy đã gửi hồ sơ đàm phán có 52/59 nhà máy với tổng công suất 2.713,611 MW đã và đang tiến hành thỏa thuận giá điện với EVN; Đã có 44/48 nhà máy với tổng công suất 2.522,211 MW đã tiến hành thỏa thuận giá điện tạm bằng 50% khung giá để làm cơ sơ huy động. Đến hết ngày 31/5/2023, Bộ Công Thương đã nhận được hồ sơ của 40/44 nhà máy (với tổng công suất là 2.368,711 MW) đã được EVN và chủ đầu tư thống nhất giá tạm, Bộ Công Thương đã phê duyệt 40 nhà máy điện; Đã có 20 nhà máy điện với tổng công suất 1.314,82 MW hòa lưới điện (bao gồm các nhà máy đã hòa lưới và COD).

Ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo chứ không phải bằng mọi giá!
Cần hiểu đúng về chính sách năng lượng tái tạo

Vì sao không huy động NLTT mà phải nhập khẩu

Trong hệ thống điện hiện nay có các loại hình nguồn điện như thủy điện, nhiệt điện (than, khí và dầu), năng lượng tái tạo. Về giá điện của các loại hình nguồn điện nêu trên có đặc điểm chung là có thành phần giá cố định và các nhà máy nhiệt điện còn có thành phần giá biến đổi. Đây là thành phần giá điện phản ánh toàn bộ chi phí nhiên liệu (theo giá than, giá dầu, giá khí) theo giá thị trường tại từng thời điểm thanh toán tiền điện.

Vì vậy, trong thời gian các năm vừa qua (đặc biệt từ năm 2022 đến nay), đối với giá năng lượng tái tạo là cố định tại các hợp đồng mua bán đã ký nhưng đối với các nhà máy nhiệt điện (than, khí và dầu), trước tác động trầm trọng của các biến động mang tính dị biệt trên thế giới và các yếu tố cung - cầu trên thị trường, giá các loại nhiên liệu cung ứng cho sản xuất điện tăng đột biến so với từ trước đến nay, dẫn đến giá biến đổi tăng rất cao nên giá điện thanh toán từ các nhà máy nhiệt điện đều cao hơn giá năng lượng tái tạo, cũng như cao hơn giá các nguồn nhập khẩu điện.

Trong cuộc họp gần đây, Thứ trưởng Bộ Công Thương cũng đã giải thích rất rõ về cơ chế giá điện. EVN hiện là người mua duy nhất, để bán lại cho khách hàng. Thị trường phát điện cạnh tranh phải xếp giá từ thấp đến cao và tuỳ thuộc hành vi chào giá. Tổ máy nào chào thấp thì được huy động trước, cao thì sử dụng cao. Ví dụ nguồn điện chạy dầu giá cao thì huy động cuối cùng sau khi các nguồn điện khác đã huy động hoặc chỉ huy động khi cấp bách.

Đến hiện tại thì thuỷ điện cũng thuộc nhóm được huy động cuối cùng để đảm bảo an toàn hệ thống do đây là nguồn điện chạy nền ổn định.

Do EVN là người mua duy nhất, nên khi phải sử dụng các nguồn điện giá cao thì các chi phí đội lên, EVN phải gánh (cũng có nghĩa là nhà nước phải chia sẻ rủi ro). Nếu không phải người mua duy nhất thì các chi phí này khi tăng lên thì lúc đó khách hàng phải chịu giá điện cao. Giá đầu vào theo thị trường, còn đầu ra bị khống chế, không theo thị trường. Đây cũng là lý do tại sao Nhà nước phải điều tiết giá điện vì còn phải đảm bảo các cân đối vĩ mô và chính sách an sinh xã hội.

Để đảm bảo cung cấp đủ điện, ngoài các nguồn điện chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống như nhiệt điện, thủy điện thì còn một phần nhỏ nhập khẩu từ các nước láng giềng (đối với năm 2022 là khoảng 0,71% công suất và 1,3% sản lượng điện). Việc xuất nhập khẩu điện là chiến lược dài hạn dựa trên các mối quan hệ chính trị - kinh tế của Việt Nam nhằm đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn của quốc gia và được xác định trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia từng thời kỳ. Đồng thời việc xuất nhập khẩu điện còn nhằm thực hiện các cam kết, hợp tác quốc tế giữa các nước trong khu vực, xây dựng các mối quan hệ láng giềng.

Việc nhập khẩu điện được tính toán kỹ lưỡng các kịch bản nhằm đảm bảo việc nhập khẩu tỷ trọng nhỏ, đảm bảo tự chủ, an ninh năng lượng quốc gia và phù hợp với các điều kiện quan hệ chính trị - kinh tế -thương mại với các nước trong khu vực. Thực tế hiện nay, lượng điện nhập khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong toàn hệ thống, mỗi ngày lượng điện nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng là hơn 10 triệu kWh (chỉ chiếm khoảng 1,2% sản lượng ngày).

Ngoài ra, trong các loại hình phát điện trong hệ thống điện hiện nay, thủy điện có giá rẻ nhất. Lào và Trung Quốc là những quốc gia có nguồn thủy điện phong phú, chưa khai thác hết tiềm năng kinh tế kỹ thuật, trong khi tiềm năng phát triển thủy điện tại Việt Nam đã được khai thác gần hết. Do đó, việc liên kết lưới điện, nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc sẽ hỗ trợ tốt cho Việt Nam trong các giai đoạn cung cấp điện gặp khó khăn với chi phí hợp lý trong mùa nắng nóng, đặc biệt là cho hệ thống điện miền Bắc (khi hầu hết các nguồn năng lượng gió và mặt trời tập trung ở phía Nam, khả năng tải của đường dây 500 kV Bắc Nam có giới hạn).

Chuyên gia Kinh tế Võ Trí Thành cho rằng, thị trường năng lượng nó chung và điện nói riêng, hiện nay không chỉ trong một quốc gia mà có tính liên kết khu vực. Bên cạnh đó, chúng ta đang thực hiện lộ trình thị trường điện cạnh tranh vì vậy cần có tư duy mới về thị trường điện.

Do đó việc nhập khẩu điện một mặt nào đó sẽ có lợi hơn cho Việt Nam khi không phải đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện, đặc biệt trong bối cảnh nguồn lực kinh tế còn khó khăn. Còn đối với nhà đầu tư nếu thấy không có lợi ích về kinh tế sẽ rất khó để họ bỏ tiền làm điện.

Tóm lại, việc ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo là chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước tuy nhiên không phải phát triển bằng mọi giá, bởi lẽ nguồn điện gió, mặt trời phụ thuộc nhiều vào thời tiết, trong khi hệ thống lưu trữ còn hạn chế, chưa thương mại hoá và giá thành đầu tư rất cao. Nếu giá bán điện cao thì dân sẽ là người chịu thiệt thòi nhất.

Bên cạnh đó, việc phát triển năng lượng tái tạo còn gắn liền với phát triển đường dây truyền tải (suất đầu tư cao, nguồn lực hạn chế, gặp khó khăn trong thủ tục, đền bù giải phóng mặt bằng...) và nhiều vấn đề khác mang tính tư duy địa phương. Ví dụ, hệ thống điện còn hạn chế, sản lượng tiêu thụ điện tại địa phương nhỏ, nhưng địa phương nào cũng ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, xin vào quy hoạch dẫn đến vượt quá khả năng và nhu cầu của hệ thống.

 

Cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác

Thứ tư, 26 Tháng 4 2023 01:57

Tin tức

Để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các dự án đốt rác phát điện, cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác.
Đốt rác phát điện, tái chế phế thải xây dựng giải bài toán ô nhiễm môi trườngSớm xử lý tro bay phát sinh ở Nhà máy đốt rác phát điện Cần Thơ

Đây là kiến nghị được các đại biểu đưa ra tại Hội thảo về công nghệ và tài chính cho các dự án điện đốt rác tại TP. Hồ Chí Minh, do Sở Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 11/4.

Cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác
Các chuyên gia, diễn giả thảo luận chia sẻ kinh nghiệm về phát triển công nghệ đốt rác phát điện tại hội thảo

Nhiều dự án đốt rác phát điện chậm tiến độ

Phát biểu tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Thanh Mỹ - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh - cho biết: Hiện nay, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh phát sinh bình quân mỗi ngày từ 10.000 đến 10.500 tấn rác sinh hoạt. Trong đó, lượng rác được xử lý bằng công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh hiện nay vẫn còn khá cao, lên đến 69%. Đây là một trong những nguồn gây phát thải khí nhà kính đáng kể trên địa bàn Thành phố do quá trình phân hủy kỵ khí thành phần hữu cơ trong rác tại các bãi chôn lấp.

Nhằm đảm bảo các vấn đề về môi trường, tận dụng nguồn năng lượng trong rác thải sinh hoạt cũng như đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính quốc gia, mục tiêu của TP. Hồ Chí Minh đến năm 2025, ít nhất 80% và đến năm 2030 đạt 100% lượng rác phải xử lý bằng công nghệ mới hiện đại là đốt rác phát điện và tái chế. TP. Hồ Chí Minh đang triển khai quyết liệt hai nhóm giải pháp bao gồm chuyển đổi công nghệ xử lý rác tại các nhà máy hiện hữu sang đốt phát điện và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án xử lý rác mới theo phương thức Đối tác công- tư (PPP).

Cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác
Đại biểu tham dự Hội thảo về công nghệ và tài chính cho các dự án điện đốt rác

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường, từ năm 2019, TP. Hồ Chí Minh đã có ba dự án nhà máy đốt rác phát điện tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Tây Bắc (huyện Củ Chi) được khởi công. Dự kiến đưa vào vận hành cuối năm 2020 đầu năm 2021.

Tính đến nay, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh có 5 dự án chuyển đổi công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt (đốt rác phát điện). Nhưng các dự án này hiện vẫn chưa đi vào hoạt động do gặp một số vướng mắc về chính sách, thủ tục pháp lý…

Cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển các dự án điện rác

Để thúc đẩy hỗ trợ phát triển công nghệ điện rác, tại hội thảo các chuyên gia, diễn giả đã chia sẻ, trao đổi, thảo luận về các chính sách và cơ chế của Chính phủ nhằm hỗ trợ các dự án đốt rác phát điện tại Việt Nam; các công nghệ đốt rác phát điện khác nhau, những cơ hội và thách thức khi thực hiện dự án đốt rác phát điện tại Việt Nam; các phương án tài chính và đầu tư đối với dự án đốt rác phát điện cũng như điều kiện để các nhà phát triển đốt rác phát điện có thể tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tài chính phát triển quốc tế… Từ đó, các nhà đầu tư đánh giá được khả năng để triển khai nhà máy xử lý chất thải rắn phát điện trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung, qua đó góp phần giảm phát thải khí nhà kính.

Cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác
Ông Lê Văn Tâm - Phó Giám đốc, Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ môi trường Việt Nam

Ông Lê Văn Tâm - Phó Giám đốc, Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ môi trường Việt Nam - cho biết: Cả nước có khoảng 20 dự án điện rác, trong đó đang vận hành khoảng 3 - 4 nhà máy, đang thi công xây dựng 4 dự án. Còn lại nhiều dự án vẫn đang thực hiện các thủ tục đầu tư, phần nhiều bị chậm tiến độ, hoặc bị đình trệ vì nhiều lý do khác nhau, trong đó chủ yếu do thiếu chính sách và các cơ chế hỗ trợ.

Theo ông Lê Văn Tâm, có nhiều nguyên nhân việc chậm triển khai dự án điện rác như: Dịch Covid-19, tạm dừng thi công, khó nhập cảnh chuyên gia và thiết bị; chi phí đầu tư cao (xử lý 1.000 tấn rác/ngày cần đầu tư khoảng 2.500 tỷ đồng), thời gian thu hồi vốn kéo dài, thường 10 – 20 năm (công suất điện phát lên lưới quốc gia nhỏ)… Ngoài ra còn rào cản pháp lý: Thủ tục đầu tư đốt rác phát điện tại Việt Nam phức tạp, kéo dài; quy định về ưu đãi cho các hoạt động tận thu năng lượng từ quá trình xử lý chất thải rắn còn thiếu, chưa đồng bộ; thủ tục thẩm định công nghệ; thủ tục môi trường…

Các đại biểu tại hội thảo cũng nhìn nhận, Chính phủ, Bộ Công Thương đã ban hành nhiều Nghị định, thông tư hỗ trợ, ủng hộ phát triển điện rác. Tuy nhiên, các cơ sở pháp lý hiện còn mang tính định hướng chung, chưa có hướng dẫn cụ thể, nhiều nội dung còn chồng chéo và bị chi phối bởi nhiều Luật, Nghị định khác.

Bên cạnh đó, việc bổ sung các nhà máy đốt rác phát điện vào quy hoạch phát triển điện lực quốc gia gặp khó khăn; chưa có văn bản hướng dẫn về các công trình cần điều chỉnh vào quy hoạch điện lực theo quy định của Luật Quy hoạch, nên tiến độ triển khai các dự án điện rác chậm so với kế hoạch và yêu cầu thực tiễn… Đến nay, hành lang pháp lý chưa có hướng dẫn về giá xử lý chất thải rắn áp dụng cho công nghệ điện rác.

Để phát triển công nghệ điện rác, các chuyên gia kiến nghị cần cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác như: Quy hoạch, đầu tư; giá mua điện; tiêu chuẩn thẩm định kỹ thuật; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế- kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn; phân loại chất thải rắn.

Sớm phê duyệt Quy hoạch điện VIII và lập quy hoạch phát triển điện rác theo Quyết định 31/2014/QĐ-TTg. Đồng thời sửa đổi các văn bản pháp luật, các quy trình, thủ tục còn vướng mắc giữa các quy định hiện hành cũng như hình thành các nguồn vốn vay hỗ trợ trực tiếp đầu tư cho điện rác…

 
 
 

Trang 1 trong tổng số 7 trang